Bạn đã thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp của bạn hoạt động không được như ý muốn, bạn muốn phục hồi hoạt động thức kinh doanh để đưa doanh nghiệp của mình trở lại với thương trường? Hãy đến với chúng tôi để được tư vấn đầy đủ, tốt nhất về việc tạm hoãn thực hiện các nghĩa vụ thanh toán để phục hồi hoạt động kinh doanh.
>> Hồ sơ giải thể doanh nghiệp
>> Tư vấn giải thể doanh nghiệp
Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán (tức là doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán) và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản.
Về nguyên tắc, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán được hưởng việc tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ về tài sản đối với các chủ nợ của mình trong một khoảng thời gian nhất định. Điều này giúp giảm bớt dù chỉ là tạm thời áp lực trả nợ cho doanh nghiệp và qua đó giúp tăng cường khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hơn nữa nó cũng phản ánh nguyên tắc chung của pháp luật phá sản là đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các chủ nợ không có bảo đảm: do doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không có khả năng thanh toán cho tất cả các chủ nợ nên không phải thanh toán cho bất cứ chủ nợ nào ngay lập tức, tất cả các chủ nợ sẽ được thanh toán một cách công bằng khi thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
1. Các trường hợp tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán
Luật Phá sản năm 2014 đề cập tới việc tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán trong hai quy định: Khoản 3 Điều 41 liên quan đến trường hợp khoản nợ có bảo đảm và điểm b khoản 1 Điều 48 xử lý trường hợp khoản nợ không có bảo đảm.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 48, sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, cấm doanh nghiệp thực hiện việc thanh toán khoản nợ không có bảo đảm, trừ khoản nợ không có bảo đảm phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản và trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp. Quy định này là một điều cấm của pháp luật mà nếu vi phạm thì giao dịch thanh toán sẽ vô hiệu (Điều 123 Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016).
Khoản 3 Điều 41 Luật Phá sản quy định trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày tòa án thụ lý việc phá sản, “cơ quan, tổ chức có thẩm quyền tạm đình chỉ việc xử lý tài sản bảo đảm của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các chủ nợ có bảo đảm” trừ trong trường hợp tài sản bảo đảm có nguy cơ bị phá hủy hoặc bị giảm đáng kể về giá trị.
2. Thời gian tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán
Thời hạn bắt đầu việc tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán của doanh nghiệp không giống nhau. Đối với khoản nợ có bảo đảm, thời hạn bắt đầu việc tạm đình chỉ xử lý tài sản bảo đảm (tức là tạm đình chỉ việc thanh toán khoản vay có bảo đảm) là kể từ ngày Tòa án thụ lý việc phá sản. Trong khi thời điểm mà việc thanh toán đối với các chủ nợ không có bảo đảm bị cấm là ngày có quyết định mở thủ tục phá sản. Tuy vậy, theo quy định tại Điều 43, thời hạn để tòa án gửi quyết định mở thủ tục phá sản cho doanh nghiệp và chủ nợ cũng như đăng trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia, Cổng thông tin điện tử của tòa án và báo địa phương – nơi doanh nghiệp có trụ sở chính – là 03 ngày làm việc kể từ ngày tòa án ra quyết định. Rủi ro đặt ra ở đây là dù tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản nhưng do các bên chưa biết được quyết định này nên vẫn thực hiện việc thanh toán khoản nợ và do đó, giao dịch thanh toán này có khả năng bị tuyên vô hiệu.
Điều dễ nhận thấy là ở đây là có sự phân biệt đối xử theo hướng bất lợi cho chủ nợ có bảo đảm so với chủ nợ không có bảo đảm, khi mà theo nguyên lý thông thường thì quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm phải được ưu tiên hơn quyền lợi của chủ nợ không có bảo đảm.
3. Hệ quả của việc tạm hoãn thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ
Xử lý tài sản bảo đảm
Khoản 1 Điều 53 Luạt Phá sản 2014 đưa ra hai hướng giải quyết việc tạm hoãn xử lý tài sản bảo đảm, theo đó, sau khi mở thủ tục phá sản, quản tài viên hay doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản đề xuất thẩm phán về việc xử lý các khoản nợ có bảo đảm như sau:
“a) Trường hợp tài sản bảo đảm được sử dụng để thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì việc xử lý đối với tài sản bảo đảm theo Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ;
b) Trường hợp không thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh hoặc tài sản bảo đảm không cần thiết cho việc thực hiện thủ tục phục hồi kinh doanh thì xử lý theo thời hạn quy định trong hợp đồng đối với hợp đồng có bảo đảm đã đến hạn. Đối với hợp đồng có bảo đảm chưa đến hạn thì trước khi tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản, tòa án nhân dân đình chỉ hợp đồng và xử lý các khoản nợ có bảo đảm”.
Như vậy việc tài sản bảo đảm có được xử lý hay không phụ thuộc vào việc có triển khai thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hay không. Về điểm này, theo quy định tại khoản 5 Điều 91 Luật Phá sản, “trường hợp phương án phục hồi hoạt động kinh doanh có sử dụng tài sản bảo đảm thì phải quy định rõ thời gian sử dụng tài sản có bảo đảm, phương án xử lý tài sản bảo đảm và phải được chủ nợ có bảo đảm bằng tài sản đó đồng ý”. Nói cách khác, việc tài sản bảo đảm có được sử dụng trong việc thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh doanh hay không là do chủ nợ có bảo đảm quyết định. Nếu chủ nợ có bảo đảm không đồng ý với việc sử dụng tài sản bảo đảm trong quá trình thực hiện phương án phục hồi kinh doanh thì có thể xử lý tài sản bảo đảm khi nghĩa vụ bảo đảm đến hạn.
Xem thêm: Xử lý nợ khi giải thể doanh nghiệp
Ý kiến bạn đọc (0)