Việt nam luôn tôn trọng quyền tự do cá nhân của mỗi người, tài sản của họ. Do đó trước khi chết người ta có quyền định đoạt tài sản của mình bằng di chúc đã lập, có người giám hộ,chứng kiến.
BLDS 2005 đã quy định các quyền của người lập di chúc tại Điều 648 như sau:
“Người lập di chúc có các quyền sau:
– Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
– Dành một phần tài sản trong khối tài sản để tặng, thừa kế.
– Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản”’
Theo đó, các quyền của người lập di chúc bao gồm:
Thứ nhất, quyền chỉ định người thừa kế. Theo pháp luật thì bất kể người nào cũng được chỉ định làm người thừa kế, kể cả cơ quan tổ chức làm người thừa kế để hưởng di sản theo di chúc của mình trên cơ sở tự nguyện của người lập di chúc..
Thứ hai, quyền truất quyền hưởng di sản. Người làm di chúc có thể truất quyền thừa kế của người có tên trong danh sách thừa kế bất kể khi nào muốn. Mặt khác, để bảo vệ quyền lợi chính đáng và thiết yếu của một số người thừa kế theo pháp luật, Bộ luật Dân sự đã hạn chế việc truất quyền của người lập di chúc trong một số trường hợp.
Thứ ba, quyền phân định di sản cho từng người thừa kế. Người lập di chúc có quyền phân chia một cách cụ thể cho người thừa kế nào hưởng phần di sản là bao nhiêu hoặc hưởng di sản là vật gì, việc phân chia di sản theo di chúc được tiến hành cho phù hợp với ý nguyện của người để lại di sản.
Thứ tư, quyền giao nghĩa vụ cho từng người thừa kế. Người được hưởng thừa kế phải làm theo nguyện vọng của người lập di chúc… Tuy nhiên, người thừa kế không phải thực hiện những nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân của người để lại di sản.
Thứ năm, quyền giành một phần di sản để di tặng. người lập di chúc có quyền tặng cho người khác tài sản của mình mà không cần thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các chủ nợ của người chết, pháp luật nước ta quy định: “Trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn lại của người này.”(khoản 2, Điều 671 BLDS 2005).
Thứ sáu, quyền để lại di sản vào việc thờ cúng. Người lập di chúc có quyền dành một phần di sản để dùng vào việc thờ cúng và cũng không cần quy định cụ thể “phần” đó là tỉ lệ bao nhiêu so với giá trị khối tài sản.
Thứ bảy, quyền sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ di chúc. Khi người lập di chúc có dự định thay đổi lại thì di chúc cũ sẽ bị hủy bỏ. Sự thay đổi đó xảy ra khi người lập di chúc thực hiện việc sửa đổi, hủy bỏ di chúc hoặc bổ sung di chúc và di chúc đã lập mâu thuẫn với phần bổ sung.
Thứ tám, quyền thay thế di chúc. Người lập di chúc có quyền thay thế di chúc đã lập. Khi người lập di chúc đã thay thế di chúc thì những di chúc trước hoàn toàn không còn hiệu lực pháp luật.
Thứ chín, quyền chỉ định người giữ di chúc, giữ di sản, phân chia di sản. Để đảm bảo ý nguyện của mình không bị người khác xâm hại, để tránh việc thất lạc hư hỏng di chúc, người lập di chúc có thể gửi lại di chúc ở công chứng nhà nước hoặc gửi bất kỳ người nào mà mình tin tưởng giữ bản di chúc, giữ di sản và phân chia di sản.
Nếu bạn có thắc mắc về lập di chúc thừa kế liên hệ đến văn phòng chúng tôi để được tư vấn tốt nhất.
Tin mới
Ý kiến bạn đọc (0)